Cách phòng chống bệnh viêm gan ở vịt

Bệnh viêm gan vịt là bệnh truyền nhiễm cấp tính lây lan mạnh gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi vịt. Bệnh xảy ra ở vịt dưới 6 tuần tuổi, mẫn cảm nhất là vịt con dưới 3 tuần tuổi. Tỷ lệ chết của bệnh cao có khi tới 100% (OIE, 2010). Cho tới nay bệnh viêm gan vịt do virus đã xảy ra ở nhiều nơi gây nhiều thiệt hại cho người chăn nuôi vịt ở các tỉnh Nam Bộ (Nguyễn Đức Lưu và Vũ Như Quán, 2002), nhất là những giống vịt cao sản mới nhập chưa thích ứng với điều kiện khí hậu, sông ngòi ở nước ta.

1. Cơ chế gây bệnh của virus

Virus xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc đường tiêu hoá, hô hấp hoặc vết thương rồi vào máu. Virus theo máu đến các cơ quan phủ tạng đặc biệt là gan, đây là cơ quan thích hợp nhất đối với virus. Quá trình bệnh lý được biểu hiện qua hai giai đoạn:

Ở giai đoạn đầu, virus gây rối loạn trao đổi chất ở gan, do quá trình trao đổi mỡ ở gan và đặc biệt là quá trình trao đổi cholesterol bị đình trệ làm cho lượng glycogen trong gan giảm thấp nhưng lượng lipit lại tăng cao. Vì vậy, vịt con ở thời kỳ cuối của bào thai thiếu năng lượng dẫn đến sức đề kháng của chúng bị giảm sút.

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn virus trực tiếp phá hoại tế bào gan, tế bào nội mô huyết quản, gây ra xuất huyết đặc trưng. Virus sinh sản trong tế bào gan, nhất là tế bào thuộc mạng lưới hệ võng mạc nội mô như tế bào Kuffer. Khi kiểm tra thấy tổ chức gan bị phá hoại, cơ thể không được giải độc làm con vật chết do ngộ độc.

2. Triệu chứng lâm sàng

Bệnh xảy ra rất nhanh, tỷ lệ mắc bệnh trong đàn là 100%, vịt chết tập trung chủ yếu  từ 3-4 ngày và tỷ lệ chết thay đổi tùy theo độ tuổi. Khi vịt nhỏ hơn 1 tuần tuổi, tỷ lệ chết có thể đến 95%, khi vịt từ 1-3 tuần tuổi tỷ lệ chết có thể đến 50% hoặc ít hơn, vịt 4-5 tuần tuổi tỷ lệ bệnh và chết không đáng kể (Nguyễn Đức Hiền, 2012).

Bệnh viêm gan vịt có thời gian nung bệnh từ 2-4 ngày, bệnh thường xảy ra đột ngột, lúc đầu chỉ thấy vài con sau đó bệnh xảy ra ồ ạt, vịt ít vận động, buồn ngủ, bỏ ăn sã cánh, một số bị tiêu chảy, sau một vài giờ niêm mạc miệng xanh tím vịt bị co giật, nằm la liệt, nghiêng sườn hoặc nằm ngửa, chân duỗi thẳng, đầu ngoẹo sang sườn hoặc lên lưng (tư thế chết đặc trưng gọi là nghiêng). Vịt co giật chết nhanh có khi chỉ 2-3 giờ kể từ khi phát bệnh, một số trường hợp vịt chết mà không có triệu chứng rõ rệt (Hồ Thị Việt Thu và Nguyễn Đức Hiền, 2012).

Tư thế chết điển hình của vịt khi b nhiễm virus viêm gan vịt

3.  Bệnh tích

               Bệnh tích tập trung chủ yếu ở gan . Gan thường bị sưng, nhũn, dễ bị nát khi ấn nhẹ. Một số trường hợp gan bị nhũn có hình thái như gelatin. Bề mặt loang lổ do có nhiều điểm xuất huyết, xuất huyết lan rộng không có ranh giới, kích thước và hình dạng to nhỏ khác nhau. Hiện tượng xuất huyết trên bề mặt gan không có ở tất cả vịt chết.

Gan vịt xuất huyết  khi b nhiễm virus viêm gan vịt

 

4. Chẩn đoán phân biệt

Bệnh dịch tả vịt (Duck plague): Bệnh dịch tả vịt thường xảy ra ở mọi lứa tuổi với các triệu chứng điển hình như: sưng đầu, sưng mắt, liệt chân, liệt cánh, tiêu chảy phân trắng, tốc độ vịt chết chậm hơn. Mổ khám thấy hiện tượng viêm loét xuất huyết đường ruột. Virus dịch tả rất mẫn cảm với chloroform, trong khi đó Viêm gan vịt kháng chloroform.

Bệnh phó thương hàn vịt (Duck Salmonellosis): Vịt con thường có biểu hiện gầy, đi tiêu chảy phân trắng, gan có điểm hoại tử. Vịt đẻ bị viêm buồng trứng, trứng non teo, dị hình, vịt giảm đẻ, vỏ trứng mỏng dễ vỡ. Quan sát bệnh tích thấy chưa tiêu hết lòng đỏ ở vịt con, gan, lách, thận sưng, sung huyết, bệnh có thể chửa khỏi bằng kháng sinh (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978). Vi khuẩn salmonella có thể nuôi cấy phân lập được trong phòng thí nghiệm trên các môi trường thạch thông thường: môi trường thạch máu, thạch thường.

Chứng nhiễm độc aflatoxin (Aflatoxicosis): không có hiện tượng lây lan trong đàn, vịt chết nhanh ở mọi lứa tuổi. Bệnh tích chủ yếu là: xoang bụng và xoang bao tim tích nước, gan sưng có màu nhợt nhạt, thận và lách xuất huyết. Kiểm tra tổ chức học thấy tổ chức nhu mô gan và thận bị phá huỷ nghiêm trọng.

5. Phòng chống bệnh

Đây là bệnh do virus gây ra nên không điều trị được bệnh, để làm giảm thiệt hại do bệnh gây ra có thể tiến hành một số biện pháp sau:

Phát hiện bệnh sớm, can thiệp bằng cách tiêm huyết thanh miễn dịch hay kháng thể viêm gan vịt chế từ lòng đỏ trứng cho vịt.

Hiện nay, các nhà khoa học đã nghĩ tới việc dùng kháng thể phòng bệnh và trị bệnh.

Nguyễn Hoàng Sơn

Trích từ Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Thú y của Nguyễn Hoàng Sơn

Tin khác
1 2 3 
Tin mới